Ngân hàng và Rủi ro Lãi suất – Các cách phòng ngừa cần biết (P.1)
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có rất nhiều loại rủi ro xảy ra như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán… Nhưng rủi ro đặc thù và khó phòng ngừa nhất của ngân hàng là rủi ro lãi suất. Khi lãi suất thị trường biến động gây ảnh hưởng đến nguồn thu từ danh mục cho vay. Và đầu tư chứng khoán cũng như chi phí trả lãi đối với các khoản tiền gửi, các nguồn vay của ngân hàng.
Những tác động này có thể làm giảm chi phí nguồn vốn. Đồng thời giảm thu nhập từ tài sản và hạ thấp vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Điều này làm thay đổi tiêu cực đến toàn bộ tài sản – nguồn vốn và thu nhập của ngân hàng. Do vậy, công tác quản trị rủi ro ở ngân hàng là rất cần thiết. Nhằm giúp các ngân hàng hạn chế được các thiệt hại khi lãi suất thị trường biến động.
Vậy rủi ro lãi suất là gì? Cách quản trị rủi ro lãi suất như thế nào? Các kỹ thuật phòng ngừa rủi ro lãi suất trong các ngân hàng thương mại hiện nay?… Tất cả những kiến thức xoay quanh chủ đề rủi ro lãi suất sẽ được Cú giải đáp ngay sau đây. Hãy cùng Cú theo dõi trong bài viết dưới đây nhé!
1. Rủi ro và rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất và quản trị rủi ro lãi suất là vấn đề quan trọng của ngân hàng. Nó quyết định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi lãi suất thay đổi thì tác động đến toàn bộ tài sản – nguồn vốn và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Lãi suất là một đại lượng biến động liên tục, nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng. Ngân hàng không thể tự xác định mức lãi suất mà lãi suất này do thị trường quy định. Ngân hàng chỉ có thể điều chỉnh hoạt động của mình theo sự biến động của lãi suất thị trường. Do đó, công tác quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng là hết sức khó khăn và phức tạp.
Nghiên cứu về rủi ro lãi suất thực chất là nghiên cứu về lãi suất và những biến động của lãi suất. Trước tiên Cú sẽ làm rõ thêm khái niệm về rủi ro là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu rủi ro lãi suất trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.1 Rủi ro là gì?
Bàn về khái niệm rủi ro: Cho đến nay chưa có được định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những trường phái khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau. Những định nghĩa này rất phong phú và đa dạng. Nhưng tập trung lại có thể chia thành hai trường phái lớn. Là trường phái truyền thống và trường phái hiện đại.
– Theo trường phái truyền thống, rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm. Hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn. Hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp. Tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm. Hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn. Hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
– Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất mát cho con người. Nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro. Anh em có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực. Đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.
Rủi ro bao gồm 3 yếu tố: Xác suất xảy ra (Probability), Khả năng ảnh hưởng đến đối tượng (Impacts on objectives) và Thời lượng ảnh hưởng (Duration). Bản chất rủi ro là sự không chắc chắn. Do đó, nếu chắc chắn (xác suất bằng 0% hoặc 100%) thì không gọi là rủi ro.
Từ những điều trên, có thể hiểu rằng, rủi ro là những bất trắc xảy ra ngoài ý muốn. Và rủi ro là không thể lường trước được. Tuy nhiên, rủi ro vừa mang nghĩa tiêu cực vừa mang nghĩa tích cực. Cụ thể, rủi ro gây ra nhiều tổn thất cho con người. Nhưng cũng chính từ những rủi ro đã gặp phải. Mà con người có thể tìm ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là những biến cố không mong đợi. Mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng. Đồng thời giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến. Hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định. Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau.
1.2 Khái niệm về rủi ro lãi suất
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro. Gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh. Cũng như uy tín của chính ngân hàng và có tính lây truyền. Ảnh hưởng rất mạnh đến toàn bộ đời sống, kinh tế, chính trị của một quốc gia. Vì vậy, để hoạt động ngân hàng phát triển vững chắc, an toàn và hiệu quả. Cần phải kiểm soát và hạn chế được rủi ro. Điều này được thực hiện thông qua công tác quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng.
Rủi ro là những sự kiện bất ngờ không mong đợi. Khi nó xảy ra thì gây ra những tổn thất ngoài dự kiến cho con người. Rủi ro tồn tại khách quan và song hành với quá trình kinh doanh. Vì vậy trong kinh doanh ngân hàng luôn tồn tại và ẩn chứa những rủi ro đe dọa. Một trong những rủi ro thường gặp nhất trong kinh doanh ngân hàng đó là rủi ro về lãi suất. Rủi ro về lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng. Khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính của ngân hàng. Rủi ro lãi suất phát sinh khi có chênh lệch về kỳ hạn tái định giá giữa tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng. Cú sẽ giải thích rõ hơn vấn đề này ở các phần sau đây.
Lưu ý: Khái niệm Tài sản có và Tài sản nợ:
- Tài sản nợ của ngân hàng là nợ, các cam kết nợ. Hay chính là nguồn tiền mà ngân hàng huy động được. Là nguồn vốn mà ngân hàng tạm sử dụng. Và phải trả về số tiền nợ gốc và lãi, trên số tiền tạm sử dụng trong một thời gian nhất định. Cụ thể đó là: tiền gửi của khách hàng, vốn vay từ các tổ chức tài chính khác. Hoặc tiền huy động từ phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi…
- Tài sản có của ngân hàng (Bank assets). Là việc ngân hàng sử dụng nguồn vốn được huy động để tạo lập các tài sản mang lại thu nhập cho ngân hàng. Về bản chất, tài sản có của ngân hàng là việc ngân hàng sử dụng vốn vào các tài sản khác. Nhằm lợi ích thu lại lãi suất, tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Tài sản có của ngân hàng là toàn bộ tài sản có giá trị. Mà ngân hàng hiện có quyền sở hữu hoặc có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đọat một cách hợp pháp. Là tài sản được hình thành trong quá trình sử dụng nguồn vốn. Cụ thể đó là: tiền cho vay, tiền đầu tư chứng khoán, tiền đầu tư dài hạn. Hay trụ sở cơ quan, văn phòng, thiết bị…
Ở Việt Nam, từ tháng 8/2000 đến giữa năm 2002. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất cơ bản. Theo đó lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng vừa chứa đựng yếu tố thị trường. Vừa chứa đựng yếu tố can thiệp hành chính của NHNN. Từ đó đến nay có thể coi lãi suất VNĐ đã được xác định hoàn toàn dựa trên quy định cung – cầu về tín dụng thị trường.
Đến ngày 30/5/2002 Ngân hàng nhà nước đã ra quyết định số 546/2002/QĐ – NHNN quy định. Từ ngày 01/6/2002 lãi suất cho vay bằng VNĐ được thực hiện theo cơ chế lãi suất thả nổi. Nhằm giảm sự can thiệp của nhà nước đối với các tổ chức tín dụng. Điều này đã giúp cho các tổ chức tín dụng có quyền chủ động hơn trong kinh doanh. Và quản lý hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả hơn. Như vậy lãi suất của các ngân hàng sẽ luôn thay đổi và khó dự đoán. Các ngân hàng luôn phải đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn rủi ro lãi suất.
Anh em hãy cùng Cú xét hai trường hợp:
a) Kỳ hạn huy động vốn ngắn hơn kỳ hạn đầu tư vốn
Bằng sơ đồ, chúng ta biểu diễn trường hợp một ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn 1 năm. Và đầu tư có kỳ hạn 2 năm như sau:
Ví dụ 1: Giả sử lãi suất huy động vốn là 9%/năm và lãi suất đầu tư là 10%/năm. Sau năm thứ nhất, bằng cách vay ngắn hạn 1 năm và cho vay dài hạn 2 năm. Ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất là: 10% – 9% = 1%. Tuy nhiên, lợi nhuận của năm thứ 2 chưa biết trước là bao nhiêu. Nên sẽ là một con số không chắc chắn. Nếu lãi suất thị trường không thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai. Thì ngân hàng có thể huy động tài sản nợ với mức lãi suất là 9%. Và do đó, mức lợi nhuận thu được trong năm thứ hai vẫn là 1%.
Tuy nhiên, vì lãi suất thị trường có thể thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai. Vì vậy ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất. Nếu như trong năm thứ hai, ngân hàng chỉ có thể huy động vốn với mức lãi suất là 11%. Dẫn đến lợi nhuận trong năm thứ hai sẽ là một số âm: 10% – 11% = -1%. Như vậy, lợi nhuận trong năm thứ nhất chỉ đủ bù lỗ cho năm thứ hai.
Tóm lại, trong mọi trường hợp nếu ngân hàng duy trì tài sản có có kỳ hạn dài hơn so với tài sản nợ. Thì ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ đối với tài sản nợ. Rủi ro sẽ thành hiện thực khi lãi suất huy động vốn trong những năm tiếp theo cao hơn mức lãi suất đầu tư tín dụng dài hạn.
b) Ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài và đầu tư có kỳ hạn ngắn
Ví dụ 2: Ngân hàng A huy động vốn với lãi suất là 9%/năm, kỳ hạn 2 năm. Và đầu tư vào tài sản có mức lãi suất là 10%/năm, với kỳ hạn là 1 năm. Cụ thể:
Tương tự như trường hợp trên, năm thứ nhất ngân hàng thu được lợi nhuận 1%.
Vì tài sản có kỳ hạn 1 năm, nên hết năm thứ nhất ngân hàng lại tiếp tục tái đầu tư. Giả sử lãi suất đầu tư trong năm thứ 2 giảm xuống chỉ còn 8%. Điều này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro về lãi suất, đó là lỗ : 8% – 9% = -1%. Như vậy, lợi nhuận trong năm thứ nhất cũng chỉ đủ bù lỗ cho năm thứ hai.
Kết quả là: Ngân hàng gặp phải rủi ro về lãi suất tái đầu tư. Trong trường hợp tài sản có có kỳ hạn ngắn hơn so với tài sản nợ (nguồn tiền).
Ngoài rủi ro tái tài trợ tài sản nợ hoặc tái đầu tư tài sản có. Thì khi lãi suất thị trường thay đổi ngân hàng còn có thể gặp phải rủi ro giảm giá trị tài sản. Như anh em đã biết, giá trị thị trường của tài sản có hay tài sản nợ đều là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng tăng lên. Và do đó giá trị hiện tại của tài sản có và tài sản nợ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị tài sản có và tài sản nợ sẽ tăng lên.
Nếu như kỳ hạn của tài sản có (cho vay) và tài sản nợ (nguồn tiền) không tương xứng với nhau. Ví dụ tài sản có có kỳ hạn dài hơn tài sản nợ. Thì khi lãi suất thị trường tăng, giá trị tài sản có sẽ giảm nhanh hơn và nhiều hơn so với sự giảm giá của tài sản nợ. Rủi ro giảm giá trị tài sản khi lãi suất thay đổi thuộc loại rủi ro về lãi suất và có thể dẫn đến thiệt hại về tài sản của ngân hàng.
Ví dụ 3: Giả sử ngân hàng X có nhu cầu cho vay 2 món: 200 triệu thời hạn 1 năm với lãi suất cố định là 10%/năm. Và 200 triệu thời hạn 2 năm với lãi suất cố định là 11%/năm.
Ngân hàng X tìm kiếm nguồn cho vay bằng cách vay trên thị trường liên ngân hàng (thị trường vay mượn giữa các tổ chức tài chính với nhau) 400 triệu. Với lãi suất cố định là 6%/năm nếu vay 1 năm và 7%/ năm nếu vay 2 năm.
– Trường hợp kỳ hạn của tài sản lớn hơn kỳ hạn của nguồn tiền: Nếu ngân hàng X vay trên thị trường liên ngân hàng kỳ hạn 1 năm. Đối với khoản cho vay 1 năm ngân hàng thu được lãi suất là: 10% – 6% = 4%. Sau 1 năm thì 200 triệu cho vay được trả và 400 triệu đi vay cần trả. Để có tiền trả 200 triệu còn lại ngân hàng cần vay thêm 200 triệu trên thị trường liên ngân hàng (tái tài trợ). Lãi suất ngân hàng phải trả khi tái tài trợ có ảnh hưởng đến chênh lệch lãi suất mà ngân hàng thu được.
Nếu lãi suất không thay đổi thì khoản lãi suất chênh lệch thu được của khoản cho vay thứ 2 là: 11% – 6% = 5%. Chênh lệch lãi suất từ 400 triệu đi vay đầu tiên là: (4% x 200 + 5% x 200) / 400 = 4,5%.
Chênh lệch lãi suất bình quân của ngân hàng X là: (4,5% + 5%) / 2 = 4,75%.
Giả sử năm thứ 2, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm 2% tức là chỉ còn 4%. Khi đó chênh lệch lãi suất năm thứ 2 là: 11% – 4% = 7%.
Chênh lệch lãi suất bình quân là: (4,5% + 7%) / 2 = 5,75%.
Giả sử năm thứ 2 lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng lên 4%, chênh lệch lãi suất năm thứ 2 là:11% -10% = 1%.
Chênh lệch lãi suất bình quân là: (4,5% + 1%) / 2 = 2,75%.
Như vậy rõ ràng ngân hàng X sẽ có chênh lệch lãi suất bình quân thấp hơn khi lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng lên. Mức lãi suất này không đủ để ngân hàng bù đắp các chi phí hoạt động và các chi phí khác. Như vậy ngân hàng đã bị tổn thất do lãi suất biến động ngoài dự kiến.
– Trường hợp kỳ hạn của tài sản nhỏ hơn kỳ hạn của nguồn tài trợ: Nếu ngân hàng đi vay trên thị trường liên ngân hàng 400 triệu với kỳ hạn 2 năm. 200 triệu được hoàn trả năm thứ nhất và thu được lãi suất chênh lệch là: 10% – 7% = 3%. Ngân hàng có thể dùng 200 triệu này để tái đầu tư. Nếu lãi suất cho vay giảm thì ngân hàng sẽ bị thiệt, ngược lại nếu lãi suất cho vay tăng thì ngân hàng sẽ thu được thêm lợi nhuận.
Kết luận: Như vậy sự không phù hợp về kỳ hạn giữa tài sản và nguồn vốn trong các hợp đồng sử dụng lãi suất cố định. Được kết hợp với thay đổi lãi suất ngoài dự kiến trên thị trường. Là lý do chính dẫn đến rủi ro về lãi suất tại các ngân hàng.
Theo kinh nghiệm của các nước, để kiểm soát rủi ro lãi suất. Các ngân hàng thực hiện các biện pháp:
- Mua bảo hiểm rủi ro lãi suất để chuyển giao toàn bộ rủi ro lãi suất cho cơ quan bảo hiểm chuyên nghiệp.
- Áp dụng các biện pháp cho vay thương mại (cho vay ngắn hạn). Để ngân hàng có thể linh động thay đổi lãi suất cho vay khi lãi suất thị trường thay đổi theo chiều hướng tăng.
- Áp dụng chiến lược chủ động trong quản trị rủi ro lãi suất. Nếu ngân hàng có thể dự báo được chiều hướng thay đổi lãi suất. Ngân hàng có thể chủ động điều chỉnh khe hở nhạy cảm lãi suất và khe hở kỳ hạn một cách hợp lý.
- Vận dụng các kỹ thuật bảo hiểm lãi suất như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn… (Cú sẽ giải thích rõ các vấn đề này ở các phần dưới đây).
1.3 Phân loại rủi ro lãi suất
a) Rủi ro tái định giá (Repricing risk)
Mức độ nhạy cảm của tài sản và công nợ đối với lãi suất phụ thuộc vào kỳ hạn cho tới ngày định giá gần nhất. Khi đó, lãi suất được thay đổi lại trong thời gian kỳ hạn của hợp đồng hay thỏa thuận tiền gửi. Thời hạn tái định giá là khoảng thời gian còn lại tính đến ngày lãi suất được thay đổi lại.
Như vậy, thời hạn tái định giá là khái niệm hoàn toàn khác so với thời gian đáo hạn. Do thời gian đáo hạn là thời điểm hợp đồng hay thỏa thuận tiền gửi kết thúc. Trong khoảng thời gian đáo hạn có thể có nhiều thời hạn tái định giá. Bởi vậy, với những tài sản và công nợ có lãi suất thả nổi. Thời gian hợp lý nhất để đánh giá rủi ro lãi suất là thời hạn tái định giá. Chứ không phải thời gian còn lại đến khi đáo hạn.
b) Rủi ro mất cân đối (Mismatch or Gap risk)
Sự mất cân đối giữa ngày đáo hạn theo hợp đồng của tài sản với lãi suất cố định và công nợ dùng để tài trợ các tài sản đó sẽ tạo ra rủi ro lãi suất. Chẳng hạn, một tài sản với thời gian đáo hạn là 4 năm được tài trợ bởi công nợ đáo hạn trong 3 năm. Sẽ tạo ra rủi ro lãi suất trong 1 năm còn lại khi cần phải thương thảo lại nguồn tài trợ thay thế.
c) Rủi ro cơ bản (Basic risk)
Rủi ro cơ bản phát sinh khi lãi suất của các tài sản và công nợ khác nhau có biểu hiện khác nhau cho dù chúng có cùng thời hạn tái định giá. Chẳng hạn, ngân hàng huy động được một khoản tiền gửi bằng USD từ một khách hàng. Sau đó, ngân hàng này gửi lại số tiền trên vào tài khoản của mình tại ngân hàng nước ngoài nhằm ăn chênh lệch lãi suất. Tuy nhiên, ngân hàng có thể sẽ phải chịu rủi ro khi biên độ chênh lệch lãi suất của hai khoản tiền gửi đó thay đổi không đoán trước được. Do sự thay đổi lãi suất bởi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED).
d) Rủi ro quyền lựa chọn (Option Risk)
Là loại rủi ro khi khách hàng có thể sử dụng quyền để tham gia hay chấm dứt hợp đồng với lãi suất cố định. Điều này có thể do việc thực hiện quyền lựa chọn trong hợp đồng. Hay do khách hành chấm dứt hợp đồng do lãi suất ưu đãi hơn trên thị trường. Cụ thể :
- Khoản vay với lãi suất cố định cho phép ngân hàng thanh toán toàn bộ công nợ bất kỳ lúc nào. Khi thấy lãi suất giảm, không có lợi cho khách hàng. Trong trường hợp này, các ngân hàng cần đưa điều khoản về phí phạt. Dự phòng trong trường hợp khách hàng thanh toán trước kỳ hạn khi ký kết hợp đồng vay hay thỏa thuận tiền gửi. Khoản phí phạt này sẽ giúp bù đắp một phần thu nhập lãi mất đi. Do sau đó ngân hàng phải tái đầu tư khoản vốn nhận được với lãi suất thấp hơn cho những khách hàng sau.
- Khoản tiền gửi với lãi suất cố định cho phép khách hàng rút tiền mặt bất cứ lúc nào khi thấy lãi suất tăng. Điều này không có lợi cho khách hàng. Chẳng hạn, khách hàng rút tiền tại Vietcombank với lãi suất cố định 5%/năm. Để gửi sang Seabank với lãi suất cao hơn 8%/năm. Khi đó Vietcombank sẽ chịu rủi ro về lãi suất do khách hàng rút tiền trước hạn.
Để hạn chế, ngân hàng cần có điều khoản quy định. Trong đó cho phép thanh toán một lượng lãi thấp hơn cho những khách hàng rút tiền sớm. Cụ thể khách hàng tất toán trước hạn thì chỉ có thể nhận được lãi suất bằng lãi suất không kỳ hạn. Điều này bù đắp một phần lãi ngân hàng bị mất đi. Do sau đó ngân hàng phải huy động nguồn vốn mới với lãi suất cao hơn. Thực tế ở ví dụ trên, khi đó để giữ chân khách hàng và huy động nguồn vốn mới. Thì Vietcombank phải nâng mức lãi suất tiền gửi của mình lên tương đương hoặc cao hơn 8%/năm.
1.4 Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất
a) Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản
Các tài sản và nguồn của ngân hàng có kỳ hạn khác nhau. Khi gắn chúng với lãi suất, các ngân hàng quan tâm đến kỳ hạn đặt lãi. Căn cứ vào kỳ hạn khoản vay mà ngân hàng có kỳ hạn đặt lại lãi suất cho phù hợp. Từ đó ngân hàng sẽ chia tài sản và nguồn vốn thành: loại nhạy cảm với lãi suất và loại kém nhạy cảm với lãi suất. Tài sản và nguồn nhạy cảm với lãi suất là loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thị trường thay đổi. Ví dụ như: loại có kỳ hạn đặt lại giá dưới 12 tháng như tài sản và nguồn ngắn hạn. Tài sản và nguồn trung hạn, dài hạn có thời gian đáo hạn trên 12 tháng,…
Khe hở lãi suất được sử dụng như một chỉ tiêu do khả năng thu nhập giảm khi lãi suất thay đổi. Khe hở lãi suất được hình thành khi có sự chênh lệch tài sản và nguồn nhạy cảm. Quy mô của nguồn và tài sản nhạy cảm ảnh hưởng bởi nhu cầu về kỳ hạn của người sử dụng. Khả năng về kỳ hạn của người gửi và cho vay và sự chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.
Khe hở nhạy cảm lãi suất (GAP) được xác định bằng công thức sau:
GAP = Giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất – Giá trị nợ nhạy cảm lãi suất
Trong đó:
- Tài sản nhạy cảm với lãi suất là những tài sản được định giá lại khi lãi suất thay đổi. Như: các khoản cho vay, chứng khoán…
- Còn nợ nhạy cảm lãi suất là những khoản vốn mà lãi suất được điều chỉnh theo thị trường. Như: tiết kiệm ngắn hạn, tiền gửi có lãi suất thả nổi, các khoản vay trên thị trường tiền tệ…
Theo lý thuyết, nếu khe hở nhạy cảm lãi suất (GAP) dương và tỷ lệ nhạy cảm lãi suất lớn hơn 1. Tức tài sản có (cho vay) lớn hơn tài sản nợ (huy động). Thì ngân hàng đang ở trạng thái nhạy cảm tài sản và rủi ro khi lãi suất giảm.
Ngược lại, khe hở nhạy cảm lãi suất âm và tỷ lệ nhạy cảm lãi suất nhỏ hơn 1. Tức tài sản có (cho vay) nhỏ hơn tài sản nợ (huy động). Thì ngân hàng đang ở trạng thái nhạy cảm tài sản và rủi ro khi lãi suất tăng.
Sự khác biệt về kỳ hạn của nguồn và tài sản là điều hiển nhiên. Thông thường, kỳ hạn để phân loại tài sản và nguồn nhạy cảm không phải là kỳ hạn danh nghĩa. Mà là kỳ hạn tài sản và nguồn được xác định lại lãi suất. Ví dụ, một nguồn tiền huy động 2 năm với lãi suất 10%/ năm song đã duy trì được 1 năm 10 tháng. Vậy tại thời điểm tính toán, nguồn này chỉ có 2 tháng là đến hạn. Nếu lãi suất thị trường thay đổi, nguồn này sẽ được xác định lại lãi suất.
Thống kê từ 26 ngân hàng thương mại tại thời điểm 31/03/2021 cho thấy: Chỉ có 4 ngân hàng đang có khe hở rủi ro lãi suất dương và tỷ lệ nhạy cảm lãi suất lớn hơn 1. Bao gồm: VietinBank (CTG), Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPB), Ngân hàng Bảo Việt (BVB) và Ngân hàng Sài Gòn (SGB). Các ngân hàng còn lại đều có khe hở rủi ro lãi suất âm và tỷ lệ nhạy cảm lãi suất nhỏ hơn 1.
Với cơ cấu tài sản nợ – có như trên, CTG, VPB, BVB, SGB đang ở trạng thái tài sản nhạy cảm khi lãi suất giảm. Khi lãi suất giảm thì thu lãi từ tài sản sẽ giảm nhiều hơn chi phí lãi cho nguồn vốn huy động. Nếu mức chênh lệch giữa tài sản có nhạy cảm lãi suất và tài sản nợ nhạy cảm lãi suất càng lớn. Sẽ làm cho rủi ro lãi suất càng lớn.
Cụ thể, CTG và VPB có khe hở rủi ro lãi suất lần lượt ở mức 29,462 tỷ đồng và 16,865 tỷ đồng. Điều này đồng nghĩa với mỗi phần trăm (%) giảm xuống của lãi suất trong thời điểm 31/03/2021 (giả sử lãi suất tài sản có và tài sản nợ biến động như nhau). Sẽ làm thu nhập của VietinBank và VPBank lần lượt giảm gần 295 tỷ đồng và 169 tỷ đồng.
Trong khi đó, 20 ngân hàng còn lại đang ở trạng thái tài sản nhạy cảm khi lãi suất tăng. Nếu lãi suất tăng thì chi phí lãi cho nguồn vốn huy động sẽ tăng nhiều hơn thu lãi từ tài sản có. Từ đó làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Thực tế, các ngân hàng không có cách nào loại bỏ hoàn toàn rủi ro lãi suất. Mà chỉ có thể kiểm soát nó trong mức cho phép. Để không tác động xấu tới giá trị tài sản trong tương lai.
Ngân hàng khó và không nhất thiết phải duy trì sự phù hợp tuyệt đối về kỳ hạn giữa các nguồn và các loại tài sản khác nhau trong mọi kỳ. Bởi các nguyên nhân sau:
- Kỳ hạn thường do khách hàng đi vay và khách gửi tiền quyết định.
- Sự thay đổi của các loại lãi suất và mức độ nhảy cảm của nguồn và tài sản cũng khác nhau.
- Sự khác biệt về nguồn và tài sản nhạy cảm có thể tạo thu nhập cao hơn cho ngân hàng. Khi khe hở nhạy cảm khác 0, lãi suất thay đổi phù hợp sẽ làm tăng thu nhập cho ngân hàng. Ngược lại, nếu lãi suất thay đổi, thu nhập từ lãi của ngân hàng sẽ tỷ lệ thuận với quy mô khe hở lãi suất.
b) Sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân hàng
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được của vốn cho vay trong thời gian một năm so với số lượng của vốn cho vay.
Lợi tức như là giá cả của hàng hóa tiền tệ. Được hình thành trên thị trường trong điều kiện đặc biệt so với những điều kiện tồn tại của các loại hàng hóa khác. Sự biến động của lãi suất chịu ảnh hưởng của các quy luật khách quan – quy luật giá cả trên thị trường. Quy luật đó lại có mối quan hệ tác động qua lại với các quy luật khác.
Các bộ phận cấu thành lãi suất: Cung cầu vốn trên thị trường. Chính sách điều hành của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Lạm phát của nền kinh tế, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư. Cơ hội kinh doanh trên thị trường…
Vì vậy, các nhà quản trị ngân hàng muốn dự báo chính xác về lãi suất thị trường. Cần phải có khả năng dự báo những thay đổi trong sự đánh giá của thị trường đối với tất cả những nhân tố cấu thành lãi suất được đề cập ở trên.
Quan hệ cung – cầu về tín dụng trên thị trường thường xuyên thay đổi. Do đó lãi suất thị trường cũng thay đổi theo. Ngân hàng rất khó kiểm soát mức độ và xu hướng biến động của nó.
Nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất dương. Thì sự tăng giảm về chênh lệch lãi suất tỷ lệ thuận với sự tăng giảm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Ngược lại, nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất âm thì sẽ tỷ lệ nghịch. Ngân hàng chỉ có thể phản ứng điều chỉnh hoạt động của mình theo sự biến động lãi suất. Để đạt được mục tiêu mong muốn kinh doanh hiệu quả nhất.
c) Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng
Trong suốt một thời gian dài trước đây. Các ngân hàng thương mại Việt Nam sử dụng chế độ lãi suất cố định theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Các dự án cho vay trung và dài hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu cho vay của NHTM. Mà hầu hết những dự án cho vay này thường áp dụng mức lãi suất cố định. Do các chủ đầu tư muốn tính được trước chi phí của dự án để có thể xác định được dòng tiền trong tương lai. Và tính được hiệu quả của dự án. Cũng như vậy, phần lớn những người gửi tiết kiệm cũng yêu cầu lãi suất cố định để phòng ngừa rủi ro. Khi lãi suất thị trường thay đổi. Thì những hợp đồng này có thể đem lại rủi ro cho ngân hàng và khách hàng.
2. Khái niệm quản trị rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất luôn tồn tại trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Là một phần rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, rủi ro lãi suất cũng đồng nghĩa với thu nhập lãi của ngân hàng giảm sút. Một lượng vốn tương ứng không được quay vòng. Dòng tiền trong nền kinh tế không lưu thông được. Và hệ thống ngân hàng sẽ gặp khó khăn về thanh khoản. Rủi ro cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất. Và quản lý thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Do tính cạnh tranh khắc nghiệt trong giai đoạn công nghiệp 4.0, các ngân hàng không chỉ cạnh tranh nhau. Mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoài ngành như các công ty tài chính, bảo hiểm, Fintech… Vì vậy, để cạnh tranh được với các đối thủ trong và ngoài ngành. Chính sách lãi suất là chiến lược mang tính chất quyết định. Bởi, cả người gửi hay người vay đều quan tâm đến lãi suất. Người gửi sẽ chọn ngân hàng huy động lãi suất cao. Còn người vay lại chọn ngân hàng có lãi suất cho vay thấp. Chính vì vậy, các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay. Dẫn đến bất cân xứng trong mối quan hệ lãi suất, do đó rủi ro sẽ gia tăng.
Vì vậy, công tác quản trị rủi ro lãi suất là vô cùng quan trọng và cần thiết trong các ngân hàng. Hãy cùng Cú tìm hiểu về khái niệm quản trị rủi ro lãi suất trong ngân hàng ngay dưới đây nhé!
2.1 Quản trị rủi ro lãi suất là gì?
Quản trị rủi ro lãi suất là việc ngân hàng tổ chức một bộ phận nhằm nhận biết, định lượng những tổn thất đang và sẽ gây ra từ rủi ro lãi suất. Để từ đó có thể giám sát và kiểm soát rủi ro lãi suất. Thông qua việc lập nên những chính sách, chiến lược sử dụng các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro lãi suất. Từ các hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục.
Trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại và các cơ quan quản lý tại nhiều quốc gia trên thế giới. Đã giành nhiều thời gian và công sức để phát triển hệ thống giám sát và quản lý rủi ro lãi suất. Nhằm tách biệt danh mục tài sản có, tài sản nợ. Và lợi nhuận của ngân hàng khỏi ảnh hưởng tiêu cực của những biến động lãi suất. Dù lãi suất thay đổi, các ngân hàng luôn mong muốn đạt được thu nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định. Và đây chính là mục tiêu của ngân hàng trong công tác quản lý rủi ro lãi suất.
Ở Việt Nam hiện nay, công tác quản lý rủi ro nhất là quản lý rủi ro lãi suất đang trở thành vấn đề được quan tâm. Đây là một vấn đề mang tính chiến lược của nhiều ngân hàng. Ngân hàng có nghiên cứu và công tác quản trị rủi ro tốt. Thì mới khẳng định được đẳng cấp, vị thế và giá trị của ngân hàng mình.
Khi lãi suất thị trường thay đổi, những nguồn thu chính từ danh mục cho vay và đầu tư chứng khoán. Cũng như chi phí trả lãi đối với tiền gửi và các nguồn vay của ngân hàng đều bị tác động. Những thay đổi của lãi suất thị trường có thể tác động tiêu cực tới lợi nhuận ngân hàng. Do làm tăng chi phí nguồn vốn, giảm thu nhập từ tài sản. Cũng như hạ thấp giá trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Vì vậy, sự biến động của lãi suất tác động đến toàn bộ bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của ngân hàng.
Nếu không có sự chú trọng thích đáng đến việc quản lý rủi ro lãi suất. Không dự đoán được xu hướng biến động của lãi suất. Thì các ngân hàng có thể bị thiệt hại nặng nề từ loại rủi ro này. Thậm chí đẩy ngân hàng vào tình trạng mất khả năng thanh toán, dẫn đến phá sản.
2.2 Sự cần thiết phải thực hiện quản trị rủi ro lãi suất
a) Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro cơ bản nhất của ngân hàng
Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây của Việt Nam. Hoạt động của ngân hàng được thực hiện theo những chỉ thị nghiệp vụ chính xác. Nhằm đảm bảo sự hoạt động thống nhất và nhất quán từ trung ương đến cấp cơ sở. Hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế kế hoạch không hoạt động dựa trên các quy luật kinh tế. Nên rủi ro cũng như công tác quản trị rủi ro không được quan tâm.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các quy luật kinh tế đặc thù. Như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… ngày càng phát huy tác dụng. Những rủi ro trong sản xuất kinh doanh của nền kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Các ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng trước hết là các trung gian tài chính đứng giữa. Và đứng trong vòng vây của 4 nhóm người có vốn và cần vốn trong nền kinh tế gồm: Hộ gia đình, doanh nghiệp, Chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài.
Sản phẩm mà các ngân hàng mua, bán, kinh doanh trên thị trường là các dịch vụ lưu chuyển vốn và các tiện ích ngân hàng khác. Hoạt động kinh doanh ngân hàng là dùng uy tín để thu hút nguồn. Và dùng năng lực quản trị rủi ro để sử dụng nguồn và phát triển dịch vụ khác. Với tư cách là người đứng giữa các lực lượng cung và các lực lượng cầu về các dịch vụ ngân hàng. Lãi suất chính là giá cả đầu vào cũng như đầu ra trong hoạt động của ngân hàng. Rủi ro xảy ra do những biến động về lãi suất luôn luôn thường trực. Và có mặt trong hầu hết những hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Như vậy, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại hình kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro. Và rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro cơ bản nhất của NHTM. Có nhiều ý kiến cho rằng các ngân hàng cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi ích. Nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý. Và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro.
b) Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực quản trị rủi ro lãi suất
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan gây ra rủi ro lãi suất. Trong đó có nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro. Trong điều kiện thị trường đầy biến động, khi lãi suất thị trường thay đổi. Có thể dẫn đến những thiệt hại về tài sản cũng như ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng.
Những ảnh hưởng của rủi ro lãi suất có thể dẫn đến rủi ro thiếu vốn khả dụng. Và từ đó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy, hàng năm ngân hàng trích lập quỹ bù đắp rủi ro. Và quỹ đó được hạch toán vào chi phí. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn cứ vào mức độ và xác suất rủi ro. Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng và ngược lại.
Rủi ro lãi suất tồn tại trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng, hoạt động kinh doanh ngoại tệ… Đều tiềm ẩn những rủi ro lãi suất. Như vậy, để hoạt động kinh doanh của ngân hàng đạt hiệu quả. Thì công tác quản trị rủi ro lãi suất cần phải được quan tâm thích đáng. Quản trị rủi ro lãi suất nói riêng và quản trị rủi ro nói chung làm giảm ảnh hưởng của những biến động đối với giá trị của ngân hàng. Bằng cách làm giảm biến động. Quản trị rủi ro làm giảm xác suất mà công ty phải đối mặt với khả năng kiệt quệ tài chính.
Xu hướng tự do hoá và toàn cầu hoá kinh tế khiến hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng ngày càng trở nên phức tạp. Rủi ro hoạt động ngày càng gia tăng. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam. Làm thế nào để quản trị rủi ro một cách có hiệu quả. Trong một môi trường kinh doanh mới và thị trường có nhiều biến động như hiện nay? Vấn đề này chỉ có thể được giải quyết thông qua việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro.
c) Quản trị rủi ro lãi suất tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Trong xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt, chất lượng hoạt động quyết đinh sự tồn tại của ngân hàng. Khi công tác quản trị rủi ro lãi suất được quan tâm và thực hiện có hiệu quả. Sẽ kéo theo chất lượng hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Vì những biến động về lãi suất luôn có một ảnh hưởng đến những hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Như hoạt động liên quan đến nghiệp vụ tạo vốn và nghiệp vụ huy động vốn.
Quan tâm đến công tác quản trị rủi ro lãi suất sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động huy động vốn. Và hoạt động tín dụng nói riêng và toàn bộ hoạt động của NHTM nói chung. Theo đó, có nhiều ý kiến khẳng định: “Quản trị rủi ro lãi suất là thước đo năng lực của một NHTM”.
2.3 Những yếu tố quan trọng khi xây dựng chương trình quản trị rủi ro lãi suất
a) Nhận diện rủi ro
Trước khi ban quản trị có thể bắt đầu đưa ra bất kỳ một quyết định nào về quản trị rủi ro. Trước tiên họ cần phải nhận diện được tất cả những rủi ro mà công ty có thể gặp phải. Những rủi ro này thường nằm trong hai nhóm: rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
Rủi ro kinh doanh là rủi ro thường không thể phòng ngừa được bởi chúng “không mua đi bán lại được”. Rủi ro tài chính là loại rủi ro mà ngân hàng gặp phải do phải đối mặt với những nhạy cảm từ các nhân tố thị trường. Như lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng hóa và chứng khoán.
Những rủi ro tài chính có thể quản trị được bởi vì có sự tồn tại của nhiều thị trường lớn. Và một thị trường hiệu quả mà thông qua đó những rủi ro này có thể được chuyển đổi. Khi xác định nên tiến hành phòng ngừa rủi ro nào, nhà quản trị rủi ro nên phân biệt những rủi ro nào mà ngân hàng được trả tiền để có được rủi ro và những rủi ro nào không được bù đắp khi phải gánh lấy nó.
Một nhân tố quan trọng khác cần xem xét đến khi xác định những rủi ro nào cần được quản trị rủi ro. Là tính trọng yếu của khoản lỗ tiềm năng có thể xảy ra nếu như ngân hàng không phòng ngừa rủi ro.
b) Phân biệt giữa quản trị rủi ro và đầu cơ
Một lý do khiến các nhà quản trị rủi ro đôi khi lưỡng lự trong việc thực hiện nghiệp vụ quản trị rủi ro. Là bởi vì họ liên hệ việc sử dụng các phương tiện quản trị rủi ro với đầu cơ. Các nhà quản trị thường nghĩ rằng quản trị rủi ro bằng các công cụ tài chính sẽ đem đến những rủi ro mới. Nhưng thực tế thì mọi hoạt động quản trị rủi ro được thiết lập tốt luôn làm giảm bớt đi những rủi ro. Nếu nhà quản trị không thực hiện quản trị rủi ro. Nghĩa là nhà quản trị đang đánh cược là thị trường sẽ ổn định. Hoặc thị trường sẽ biến động theo chiều hướng thuận lợi cho ngân hàng.
c) Đánh giá chi phí hoạt động quản trị rủi ro
Đánh giá chi phí của hoạt động quản trị rủi ro trên phương diện chi phí phát sinh do không thực hiện hoạt động quản trị rủi ro. Sử dụng phương thức đánh giá đúng đắn để đánh giá hiệu quả của hoạt động quản trị rủi ro.
Chi phí quản trị rủi ro thường rất tốn kém. Nhưng nhà quản trị nên đánh giá chi phí quản trị rủi ro trên cơ sở so sánh với những tổn thất có thể xảy ra nếu không thực hiện quản trị rủi ro.
Ngay từ ban đầu, nhà quản trị rủi ro phải thiết lập mục tiêu khi thực hiện các công cụ tài chính để quản trị rủi ro. Và phải căn cứ vào mục tiêu để đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng các công cụ quản trị rủi ro. Nhà quản trị không nên đánh giá tính hiệu quả của các công cụ quản trị rủi ro thông qua những khoản lỗ, lãi mà các công cụ này mang lại.
d) Chương trình quản trị rủi ro không nên dựa vào quan điểm thị trường
Không nên xây dựng một chương trình quản trị rủi ro dựa trên quan điểm của nhà quản trị về lãi suất. Hay tỷ giá và một số nhân tố thị trường khác. Chỉ có thể có được các quyết định quản trị rủi ro hiệu quả nhất. Khi các nhà quản trị rủi ro công nhận rằng. Những chuyển động của thị trường là không thể dự đoán được. Nghiệp vụ quản trị rủi ro cần luôn luôn tìm cách giảm thiểu rủi ro. Chứ không nên thực hiện một canh bạc theo hướng chuyển động của giá cả thị trường.
e) Nắm rõ các công cụ quản trị rủi ro
Để có thể xây dựng chương trình quản trị rủi ro đòi hỏi các nhà quản trị phải nắm rõ các công cụ quản trị rủi ro. Bao gồm các phương pháp đo lường rủi ro, các công cụ quản trị rủi ro.
f) Thiết lập hệ thống kiểm soát
Nhà quản trị cần phải có một hệ thống chính sách nội bộ, các quy trình. Và các công cụ kiểm soát để đảm bảo hoạt động quản trị rủi ro được thực hiện một cách hiệu quả.
Lời kết
Bài viết là chia sẻ của Cú với anh em về những kiến thức cơ bản của rủi ro lãi suất. Và sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro lãi suất trong các ngân hàng thương mại. Mong rằng qua bài viết, anh em đã hiểu về rủi ro lãi suất là gì? Các loại rủi ro lãi suất? Cũng như tầm quan trọng của hoạt động quản trị rủi ro lãi suất trong các ngân hàng. Đây là yếu tố quan trọng giúp nhà đầu tư đánh giá sức khỏe tài chính, hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Và sự ổn định phát triển trong tương lai của nền kinh tế, cũng như ngân hàng. Hãy nghiên cứu và tìm hiểu thật kỹ về các kiến thức vốn lưu động. Trên cơ sở đó đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả nhất nhé.
Để cập nhật thêm những kiến thức tài chính – chứng khoán bổ ích. Hãy ghé thăm Cú thường xuyên nhé!
Nếu còn điều gì thắc mắc về chủ đề này, anh em có thể inbox cho Cú. Cú luôn sẵn sàng trao đổi và đón nhận những thông tin kiến thức mới đến từ anh em.
Anh em cũng nên trang bị cho mình các kiến thức vĩ mô khác hữu ích với nhà đầu tư.
Anh em có thể tìm hiểu thêm bài viết về Lãi suất của Cú như:
1. Rủi ro lãi suất là gì? Cách phòng ngừa Rủi ro lãi suất cần biết (P.2)
2. Lãi suất là gì? Lãi suất kép là gì? Tất cả về Lãi suất (P1)
3. Lãi suất là gì? Lãi suất kép là gì? Tất cả về Lãi suất (P2)
Khóa học chứng khoán cho NĐT F0 của Cú
Ngoài ra để hiểu rõ hơn cách phân tích chuyên sâu 1 báo cáo kết quả kinh doanh. Anh em có thể học thêm. Hiện tại Cú có cung cấp khóa học chứng khoán. Với những kiến thức từ cơ bản đến nâng cao cho anh em. Cụ thể, bao gồm 3 khóa học: phân tích cổ phiếu BĐS, chứng khoán cơ sở, và chứng khoán phái sinh. Cú sẽ giúp anh em:
💯 Cung cấp kiến thức căn bản từ A-Z cho nhà đầu tư cả mới và lâu năm.
💯 Thực chiến thị trường, thành thạo các lệnh giao dịch.
💯 Hiểu đúng về cổ phiếu BĐS, mô hình kinh doanh. Cách biến dự án thành tiền của DN BĐS.
Vì vậy nếu anh em nào có nhu cầu, có thể đăng ký khóa học hướng dẫn cơ bản từ A-Z về chứng khoán của Cú. Khóa học dành cho cả nhà đầu tư mới và lâu năm. Chỉ cần inbox là Cú sẽ giải đáp các thắc mắc nhé!
Chúc anh em đầu tư thành công!
Các kênh liên lạc
Để cập nhật thêm nhiều thông tin bổ ích về chứng khoán, theo dõi các kênh của Cú theo thông tin:
| Facebook: https://www.facebook.com/CuThongThai.VNInvestor/
| Youtube: https://www.youtube.com/channel/UCsk1Sln_4ju2JVyPhFcWwtA
| Tiktok: https://www.tiktok.com/@cuthongthai
| Instagram: https://www.instagram.com/cuthongthai/
| Podcasts: https://open.spotify.com/show/2QVMe6zi7toZM1YzRdUt7V
| Group cộng đồng Nhà đầu tư F0: https://www.facebook.com/groups/17609477738969